Chuyên gia ADB: Việt Nam cần 110 tỷ USD đầu tư hạ tầng

Donald Lambert, Chuyên gia Phát triển khu vực Tư nhân (ADB) cho rằng Việt Nam cần 110 tỷ USD đầu tư hạ tầng giai đoạn 2021-2025.

Trong bài phân tích vừa phát hành, ông Donald Lambert đã đưa ra ba chiến lược mấu chốt để Việt Nam có thể đạt được các mục tiêu phát triển đầy tham vọng trong những năm tới.

Liên quan tới nguồn vốn đầu tư, ADB ước tính Đông Nam Á sẽ cần đầu tư trung bình 210 tỷ đô la mỗi năm cho đến năm 2030. Riêng Việt Nam sẽ cần đầu tư 110 tỷ USD từ năm 2021 đến 2025 cho cơ sở hạ tầng và để đạt được các Mục tiêu Phát triển bền vững.

Dựa trên những xu hướng trong quá khứ, ADB ước tính nguồn vốn thiếu hụt dự kiến khoảng 22 tỷ USD.

22 tỷ USD trong vòng 5 năm là một con số lớn. Tuy nhiên ADB cho rằng không phải là không thể đạt được vì Việt Nam đang ở vị thế tốt hơn so với nhiều nước. Bên cạnh đó, khu vực tư nhân từ trước tới nay mới chỉ tài trợ 10% cho cơ sở hạ tầng của Việt Nam.

“Điều này có nghĩa là còn rất nhiều dư địa thu hút thêm đầu tư cho cơ sở hạ tầng cho Việt Nam và phục vụ câu chuyện tăng trường ngoạn mục”, ông Donald Lambert cho hay.

Để thu hút được vốn, chuyên gia Donald Lambert đưa ra ba ba khuyến nghị chiến lược mà Việt Nam nên theo đuổi.

Chiến lược đầu tiên là sử dụng xúc tác nhiều hơn cho hỗ trợ phát triển. Điều này đòi hỏi một tư duy khác khi Việt Nam không còn là một quốc gia thu nhập thấp nữa, nhưng cũng chưa sẵn sàng tự tài trợ thông qua đầu tư tư nhân và thị trường vốn trong nước.

Do đó, ADB cho rằng trong giai đoạn chuyển tiếp này Việt Nam nên sử dụng trợ giúp của các nhà tài trợ để làm xúc tác cho đầu tư tư nhân. “Nếu không có xúc tác này, đầu tư tư nhân sẽ không tự đến”, ông Lambert nói.

Chiến lược thứ 2 để thu hút tài trợ là phát hành các khoản bảo lãnh đối ứng cho ADB và các đối tác phát triển khác để họ có thể sử dụng xếp hạng tín nhiệm quốc tế cao của mình nhằm giảm rủi ro cho các dự án.

Việc sử dụng hỗ trợ phát triển mang tính xúc tác để thu hút đầu tư tư nhân có mối quan hệ chặt chẽ với ưu tiên chiến lược thứ hai là thông qua đạo luật mạnh về đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP). Quốc hội đã xem xét dự thảo lần thứ nhất của luật và hy vọng có thể thông qua dự thảo lần thứ hai trong tháng 5 này. Do đó, các hoạt động tham vấn cần tập trung vào những nội dung chính còn thiếu những phần hấp dẫn, vốn cần thiết để thu hút đầu tư quốc tế.

Ví dụ, luật này cần giảm thiểu rủi ro tốt hơn khi nhu cầu đối với một dự án cơ sở hạ tầng thấp hơn so với dự báo. Thực tế là Việt Nam đã thực hiện điều này với biểu giá điện hỗ trợ cho các dự án sản xuất điện năng. Luật PPP cần có khả năng đảm bảo tương tự cho các lĩnh vực khác, nhất là giao thông.

Điều này có thể đạt được thông qua bảo lãnh doanh thu tối thiểu hoặc bảo đảm rằng các khoản thanh toán khả dụng sẽ được tự động gia hạn vượt quá mức trần hiện thời là 5 năm.

Tuy nhiên, quan ngại trong PPP là luật áp dụng. Nghị định hiện hành về PPP cho phép phạm vi sử dụng luật pháp nước ngoài trong giải quyết tranh chấp các hợp đồng PPP rộng hơn so với dự thảo luật.

“Điều này là rất quan trọng. Các khoản đầu tư theo hình thức đối tác công tư đòi hỏi những hợp đồng pháp lý phức tạp, và các nhà đầu tư thường dựa vào những hệ thống pháp lý có bề dày án lệ để diễn giải chúng”, ông Lambert phân tích.

Hay rủi ro chấm dứt hợp đồng cũng cần phải được tính đến. Một khi dự án được xây dựng, các nhà đầu tư cần sự bảo đảm rằng họ sẽ được trả tiền ngay cả khi chính phủ chấm dứt hợp đồng. Nếu không có những thay đổi này, thành công của luật PPP mới là không chắc chắn, và các dự án đấu thầu trong lĩnh vực đường bộ và các lĩnh vực khác nhiều khả năng sẽ chỉ nhận được sự quan tâm hạn chế từ các nhà đầu tư nước ngoài.

Đối với ưu tiên chiến lược cuối cùng mà chuyên gia ADB đề cập là huy động tốt hơn các thị trường vốn trong nước. Việc thông qua Luật Chứng khoán mới vào tháng 11/2019 được đánh giá là “một bước đi hữu ích”, cũng như những thay đổi pháp lý gần đây khuyến khích các công ty tìm đến thị trường trái phiếu thay vì ngân hàng để tài trợ cho các khoản nợ dài hạn.

Tuy nhiên, chuyên gia này khuyến nghị Việt Nam vẫn cần phải làm nhiều hơn nữa. Ví dụ các quỹ hưu trí tư nhân, quỹ đầu tư và công ty bảo hiểm, tất cả đều cần lớn mạnh để tạo ra nền tảng vững chắc cho nhu cầu trái phiếu doanh nghiệp.

“Riêng quỹ hưu trí nhà nước, Cơ quan Bảo hiểm xã hội, trước hết phải có khả năng quản lý thận trọng và thứ hai là bắt đầu đầu tư vào nợ doanh nghiệp”, ông này khuyến cáo.

Ngoài ra, Việt Nam cần thành lập một cơ quan xếp hạng tín dụng và Chính phủ nên chủ động tiếp thị cơ hội đầu tư này tới những tổ chức xếp hạng quốc tế.

Những bước đi này sẽ giúp thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển, tạo ra cơ hội cho trái phiếu dự án, đặc biệt nếu có sẵn các cơ chế nâng hạng tín nhiệm cho những công cụ này.

“Việc Việt Nam tốt nghiệp các nguồn tài trợ ưu đãi hiển nhiên là tích cực. Đó là kết quả trực tiếp từ sự năng động và tiềm năng của nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ này. Vấn đề giờ đây là quản lý thành công này bằng việc xây dựng chiến lược tài trợ cho kế hoạch 5 năm tiếp theo. Một mặt, không thể tiếp tục con đường cũ. Hy vọng rằng Việt Nam sẽ không bao giờ quay lại là một trong những quốc gia nhận viện trợ lớn nhất của thế giới”, chuyên gia Phát triển khu vực Tư nhân (ADB) nói.

 

“Năm 2017, Việt Nam đã “tốt nghiệp” phân loại quốc gia được hỗ trợ ưu đãi của Ngân hàng Thế giới, 18 tháng sau cũng ra khỏi danh mục phân loại tương đương của ADB. ADB và các nhà tài trợ khác đang cố gắng giảm nhẹ quá trình chuyển đổi này bằng cách kết hợp các khoản viện trợ không hoàn lại với vốn vay cho Việt Nam để giảm chi phí vay vốn ròng. Năm 2019, ADB đã phê duyệt một chính sách định giá mới, mang lại lợi ích tạm thời cho các quốc gia, giống như Việt Nam, vừa ra khỏi danh mục hỗ trợ ưu đãi nhất. Biện pháp này vẫn mang tính chất tạm thời và sẽ không cung cấp mô hình tài trợ cho kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội tiếp theo của Việt Nam như trước.”

C. Sơn
Báo Giao Thông